| 
				 
    
    			 
				
       | 
				
				 
			"Nhân sinh tự cổ 
			thùy vô tử 
			Lưu thủ đang tâm chiếu 
			hăn thanh..." 
			蘇軾 
			
			
			-
			Tô Thức (Trung Hoa 1035-1101) 
					
						| 
						 
						水調歌頭 
						Thủy Điệu Ca Đầu 
						
						  
						
						(中秋)(Trung Thu)  
						明月幾時有 Minh nguyệt kỷ thời hữu?  
						把酒問青天 Bả tửu vấn thanh thiên  
						不知天上宮闕 Bất tri thiên thượng cung khuyết  
						今夕是何年 Kim tịch thị hà niên  
						我欲乘風歸去 Ngă dục thừa phong quy khứ  
						又恐瓊樓玉宇 Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ  
						高處不勝寒 Cao xứ bất thắng hàn  
						起舞弄清影 Khởi vũ lộng thanh ảnh  
						何似在人間 Hà tự tại nhân gian? 
						轉朱閣 Chuyển chu các  
						低綺戶 Đê ỷ hộ  
						照無眠 Chiếu vô miên  
						不應有恨 Bất ưng hữu hận  
						何事長向別時圓 Hà sự trường hướng biệt thời viên? 
						人有悲歡離合 Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp  
						月有陰晴圓闕 Nguyệt hữu âm, t́nh, viên, khuyết  
						此事古難全 Thử sự cổ nan toàn  
						但願人長久 Đán nguyện nhân trường cửu  
						千里共嬋娟 Thiên lư cộng thiền quyên... 
						 | 
						
					 
					Bến Ca Đầu 
						(Minh Tấn dịch) 
						  
					(Trung Thu) 
					Trăng sáng có tự thuở nào? 
					Nhấc chung rượu hỏi trời cao xanh rằng 
					Trên kia có khuyết cung chăng 
					Đêm nay chẳng biết là đang năm nào 
					Ta muốn cưỡi gió về mau 
					Lầu quỳnh điện ngọc sợ vào chẳng hay 
					V́ cao lạnh buốt ḷng lay 
					Bóng trăng theo bước múa xoay chập chờn 
					Trần gian đâu khác ǵ hơn? 
					Chiếu quanh gác tía, 
					Trăng luồn lụa song 
					Ánh vàng trải khắp mênh mông 
					Chẳng v́ cừu hận bởi không xá ǵ 
					Cớ sao tỏ lúc biệt ly? 
					T́nh người tan, hợp, buồn, vui thường c̣n 
					T́nh trăng mờ, tỏ, khuyết, tṛn 
					Chuyện xưa nay chẳng chung đường khiến xuôi 
					Nguyện cho người sống muôn đời 
					Ngh́n trùng dặm bước bên người, người ơi…  | 
					 
				 
					
					Chú thích:  Năm 
					1079 vua Tống Thành Tông xuống chiếu biếm Tô Thức đi làm 
					Đoàn Luyện Phó Sứ tại Huỳnh Châu về vụ "Ô Đài Thi Án".  
					Tô Thức được người bạn là Mă Chính Khanh t́m cho ông một lô 
					đất rộng khoảng mười mẫu bỏ hoang trên sường đồi và được các 
					lăo nông thôn chỉ cách canh tác đến mùa Thu năm sau th́ quả 
					nhiên trúng mùa to.  Cả nhà ăn mừng mời dân làng đến 
					chung vui cho đến khuya.  Khi mọi người ra về và đă 
					ngủ, Tô Thức một ḿnh c̣n uống rượu và ngắm trăng Thu, nhớ 
					đến người em là Tô Triệt (Tô Tử Do) nên làm bài từ trên để thố lộ tâm 
					t́nh (Tô Thức và Tô Triệt là hai anh em rất thân từ nhỏ 
					chung sống và cùng nhau học hành chưa từng rời nhau một 
					bước...) 
				
				Đến mùa Đông công việc đồng áng ít 
				đi, họ bắt đầu xây mấy căn nhà bên cạnh đất canh tác và cũng cất 
				cho Tô Thức một thư pḥng.  Hôm khánh thành thư pḥng th́ 
				gặp trời đổ tuyết, Tô Thức cảm hứng lấy bút vẽ vào bốn bức tường 
				những cảnh tuyết đổ v́ vậy mà thư pḥng được mệnh danh là "Tuyết 
				Đường" cũng chính v́ vậy mà ông có cái tên lưu truyền măi về sau 
				là Tô Đông Pha... Minh Tấn  |