| 
						 
						亂時       
						 
						 Loạn Thời  
						
						天地風塵  Thiên địa phong 
						trần  
						紅顏多屯  Hồng nhan đa truân  
						悠悠彼蒼兮  Du du bỉ thương hề  
						誰造因  Thuỳ tạo nhân  
						鼓鼙聲動長城月  Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt 
						烽火影照甘泉雲  Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân  
						九重按劍起當席  Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch  
						半夜飛檄傳將軍  Bán dạ phi hịch truyền tướng quân  
						清平三百年天下  Thanh b́nh tam bách niên thiên hạ  
						從此戎衣屬武臣  Tùng thử nhung y thuộc vũ thần  
						使星天門催曉發  Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát  
						行人重法輕離別  Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt  
						弓箭兮在腰  Cung tiễn hề tại yêu  
						妻孥兮別袂  Thê noa hề biệt khuyết  
						獵獵旌旗兮出塞愁  Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu  
						喧喧簫鼓兮辭家怨  Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán  
						有怨兮分攜  Hữu oán hề phân huề  
						有愁兮契闊  Hữu sầu hề khế khoát  
						良人二十吳門豪  Lương nhân nhị thập Ngô môn hào 
						投筆硯兮事弓刀  Đầu bút nghiên hề sự cung đao  
						直把連城獻明聖  Trực bả liên thành hiến minh thánh  
						願將尺劍斬天驕  Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu  
						丈夫千里志馬革  Trượng phu thiên lư chí mă cách  
 泰山一擲輕鴻毛  Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao  
						便辭閨閫從征戰  Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến  
						西風鳴鞭出渭橋  Tây phong minh tiên xuất Vị kiều 
						  
						
						出征        
						 Xuất Chinh 
						
						渭橋頭清水溝  Vị kiều 
						đầu thanh thuỷ câu  
						清水邊青草途  Thanh 
						thuỷ biên thanh thảo đồ  
						送君處兮心悠悠  Tống 
						quân xứ hề tâm du du  
						君登途兮妾恨不如駒  Quân 
						đăng đồ hề thiếp hận bất như câu 
						君臨流兮妾恨不如舟  Quân 
						lâm lưu hề thiếp hận bất như chu 
						清清有流水  Thanh 
						thanh hữu lưu thuỷ  
						不洗妾心愁  Bất tẩy 
						thiếp tâm sầu  
						青青有芳草  Thanh 
						thanh hữu phương thảo  
						不忘妾心憂  Bất vong thiếp tâm ưu 
						語復語兮執君手  Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ  
						步一步兮牽君襦  Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu  
						妾心隨君似明月  Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt  
						君心萬里千山箭  Quân tâm vạn lư Thiên Sơn tiễn  
						擲離杯兮舞龍泉  Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền  
						橫征槊兮指虎穴  Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt  
						云隨介子獵樓蘭  Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan  
						笑向蠻溪談馬援  Tiếu hướng Man Khê đàm Mă Viện  
						君穿壯服紅如霞  Quân xuyên trang phục hồng như hà  
						君騎驍馬白如雪  Quân kỵ kiêu mă bạch như tuyết  
						驍馬兮鸞鈴  Kiêu mă hề loan linh  
						征鼓兮人行  Chinh cổ hề nhân hành  
						須臾中兮對面  Tu du trung hề đối diện  
						頃刻裡兮分程  Khoảnh khắc lư hề phân tŕnh  
						分程兮河梁  Phân tŕnh hề hà lương  
						徘徊兮路旁  Bồi hồi hề lộ bàng  
						路旁一望兮旆央央  Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương  
						前車兮北細柳  Tiền xa hề Bắc Tế Liễu,  
						後騎兮西長楊  Hậu kỵ hề Tây Trường Dương  
						騎車相擁君臨塞  Kỵ xa tương ủng quân lâm tái  
						楊柳那知妾斷腸  Dương liễu na tri thiếp đoạn trường  
						去去落梅聲漸遠  Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn  
						行行征旆色何忙  Hành hành chinh bái sắc hà mang  
						望雲去兮郎別妾  Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp  
						望山歸兮妾思郎  Vọng sơn quy hề thiếp tư lang.  
						郎去程兮濛雨外  Lang khứ tŕnh hề mông vũ ngoại  
						妾歸處兮昨夜房  Thiếp quy xứ hề tạc dạ pḥng 
						歸去兩回顧  Quy khứ lưỡng hồi cố  
						雲青兮山蒼  Vân thanh hề sơn thương  
						郎顧妾兮咸陽  Lang cố thiếp hề Hàm Dương  
						妾顧郎兮瀟湘  Thiếp cố lang hề Tiêu Tương  
						瀟湘煙阻咸陽樹  Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ  
						咸陽樹隔瀟湘江  Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang  
						相顧不相見  Tương cố bất tương kiến  
						青青陌上桑  Thanh thanh mạch thượng tang  
						陌上桑陌上桑  Mạch thượng tang mạch thượng tang  
						妾意君心誰短長  Thiếp ư quân tâm thuỳ đoản trường 
						  
						
						悲懼          
						Sầu Tủi 
						
						自從別後風沙隴  Tự 
						tùng biệt hậu phong sa lũng  
						明月知君何處宿  Minh 
						nguyệt tri quân hà xứ túc  
						古來征戰場  Cổ lai 
						chinh chiến trường  
						萬里無人屋  Vạn lư 
						vô nhân ốc  
						風熬熬兮打得人顏憔  
						Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều  
						水深深兮怯得馬蹄縮  Thuỷ 
						thâm thâm hề khiếp đắc mă đề súc  
						戍夫枕鼓臥龍沙  Thú 
						phu chẩm cổ ngọa Long sa  
						戰士抱鞍眠虎陸  Chiến 
						sĩ băo yên miên hổ lục  
						今朝漢下白登城  Kim 
						triêu Hán há Bạch Đăng thành  
						明日胡窺青海曲  Minh 
						nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc  
						青海曲青山高復低  Thanh 
						Hải khúc thanh sơn cao phục đê  
						青山前青溪斷復續  Thanh 
						sơn tiền thanh khê đoạn phục tục  
						青山上雪蒙頭  Thanh 
						sơn thượng tuyết mông đầu  
						青溪下水沒腹  Thanh 
						khê hạ thuỷ một phúc  
						可憐多少鐵衣人  Khả 
						liên đa thiểu thiết y nhân  
						思歸當此愁顏蹙  Tư quy 
						đương thử sầu nhan xúc  
						錦帳君王知也無  Cẩm 
						trướng quân vương tri dă vô  
						艱難誰為畫征夫  Gian 
						nan thuỳ vị họa chinh phu  
						料想良人經歷處  Liệu 
						tưởng lương nhân kinh lịch xứ  
						蕭關角瀚海隅  Tiêu 
						Quan giác hăn hải ngung.  
						霜村雨店  Sương 
						thôn vũ điếm  
						虎落蛇區  Hổ lạc xà 
						khu  
 風餐露宿  Phong xan lộ túc 
						雪脛冰鬚  Tuyết 
						hĩnh băng tu  
						登高望雲色  Đăng cao 
						vọng vân sắc  
						安復不生愁  An phục 
						bất sinh sầu  
						自從別後東南徼  Tự 
						tùng biệt hậu Đông Nam kiếu  
						東南知君戰何道  Đông 
						Nam tri quân chiến hà đạo  
						古來征戰人  Cổ lai 
						chinh chiến nhân  
						性命輕如草  Tính 
						mệnh khinh như thảo  
						鋒刃下  Phong nhận 
						hạ    
						
						溫溫挾纊主恩深  Ôn ôn 
						hiệp khoáng chủ ân thâm 
						時刻中  Thời khắc 
						trung   
						
						歷歷橫戈壯士夭  Lịch 
						lịch hoành qua tráng sĩ yểu  
						祈山舊塚月茫茫  Kỳ sơn 
						cựu trủng nguyệt mang mang  
						淝水新墳風裊裊  Ph́ 
						thuỷ tân phần phong niểu niểu  
						風裊裊空吹死士魂  Phong 
						niểu niểu không xuy tử sĩ hồn  
						月茫茫曾照征夫貌  Nguyệt 
						mang mang tằng chiếu chinh phu mạo  
						征夫貌兮誰丹青  Chinh 
						phu mạo hề thuỳ đan thanh  
						死士魂兮誰哀弔  Tử sĩ 
						hồn hề thuỳ ai điếu  
						可憐爭鬪舊江山  Khả 
						liên tranh đấu cựu giang sơn  
						行人過此情多少  Hành 
						nhân quá thử t́nh đa thiểu  
						古來征戰幾人還  Cổ lai 
						chinh chiến kỷ nhân hoàn  
						班超歸時鬢已斑  Ban 
						Siêu quy thời mấn dĩ ban  
						料想良人馳騁外  Liệu 
						tưởng lương nhân tŕ sính ngoại  
						三尺劍一戎鞍  Tam 
						xích kiếm nhất nhung yên  
						秋風沙草 Thu phong sa 
						thảo  
						明月關山  Minh 
						nguyệt quan sơn  
						馬頭鳴鏑  Mă đầu 
						minh đích  
						城上緣竿  Thành 
						thượng duyên can  
						功名百忙裏  Công 
						danh bách mang lư  
						勞苦未應閒  Lao khổ 
						vị ưng nhàn 
						  
						
						懷想          
						Hoài Tưởng  
						
						勞與閒誰與言  
						Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn  
						君在天涯妾倚門  Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn  
						倚門固妾今生分  Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận  
						天涯豈君平生魂  Thiên nhai khởi quân b́nh sinh hồn  
						自信相隨魚水伴  Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn  
						那堪相隔水雲村  Na kham tương cách thuỷ vân thôn  
						妾身不想為征婦  Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ  
						君身豈學為王孫  Quân thân khởi học vi vương tôn  
						何事江南與江北  Hà sự giang Nam dữ giang Bắc  
						令人愁曉更愁昏  Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn  
						一個是風流少年客  Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
						 
						一個是深閨少年婚  Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn  
						可堪兩年少  Khả kham lưỡng niên thiếu  
						千里各寒暄  Thiên lư các hàn huyên  
						憶昔與君相別時  Ức tích dữ quân tương biệt thời  
						柳條猶未囀黃鸝  Liễu điều do vị chuyển hoàng ly  
						問君何日歸  Vấn quân hà nhật quy  
						君約杜鵑啼  Quân ước đỗ quyên đề  
						杜鵑已逐黃鸝老  Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lăo  
						青柳樓前語鷾鴯  Thanh Liễu lâu tiền ngữ ư nhi  
						憶昔與君相別中  Ức tích dữ quân tương biệt trung  
						雪梅猶未識東風  Tuyết mai do vị thức Đông phong,  
						問君何日歸  Vấn quân hà nhật quy  
						君指桃花紅  Quân chỉ đào hoa hồng  
						桃花已伴東風去  Đào hoa dĩ bạn Đông phong khứ  
						老梅江上又芙蓉  Lăo mai giang thượng hựu phù dung  
						與我約何所  Dữ ngă ước hà sở  
						乃約隴西岑  Năi ước Lũng Tây sầm  
						日中兮不來  Nhật trung hề bất lai  
						墜葉兜我簪  Trụy diệp đâu ngă trâm  
						竚立空涕泣  Trữ lập không thế khấp  
						荒邨喧午禽  Hoang thôn huyên ngọ cầm  
						與我約何所  Dữ ngă ước hà sở  
						乃約漢陽橋  Năi ước Hán Dương kiều  
						日晚兮不來  Nhật văn hề bất lai  
						谷風吹我袍  Cốc phong xuy ngă bào  
						竚立空涕泣  Trữ lập không thế khấp  
						寒江起暮潮  Hàn giang khởi mộ trào  
 昔年寄信勸君回  Tích niên kư tín khuyến quân hồi  
						今年寄信勸君來  Kim niên kư tín khuyến quân lai  
						信來人未來  Tín lai nhân vị lai  
						楊花零落委蒼苔  Dương hoa linh lạc uỷ thương đài  
						蒼苔蒼苔又蒼苔  Thương đài thương đài hựu thương đài  
						一步閒庭百感催  Nhất bộ nhàn đ́nh bách cảm thôi  
						昔年回書訂妾期  Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ  
						今年回書訂妾歸  Kim niên hồi thư đính thiếp quy  
						書歸人未歸  Thư quy nhân vị quy  
						紗窗寂寞轉斜暉  Sa song tịch mịch chuyển tà huy  
						斜暉斜暉又斜暉  Tà huy tà huy hựu tà huy  
						十約佳期九度違  Thập ước giai kỳ cửu độ vi 
						  
						
						孤另          
						Cô Lánh 
						
						試將去日從頭數  
						Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ  
						不覺荷錢已三鑄  Bất giác hà tiền dĩ tam chú  
						最苦是連年紫塞人  Tối khổ thị liên niên tử tái nhân  
						最苦是千里黃花戍  Tối khổ thị thiên lư hoàng hoa thú  
						黃花戍誰無堂上親  Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
						 
						紫塞人誰無閨中婦  Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ  
						有親安可暫相離  Hữu thân an khả tạm tương ly  
						有婦安能久相負  Hữu phụ an năng cửu tương phụ  
						君有老親鬢如霜  Quân hữu lăo thân mấn như sương  
						君有兒郎年且孺  Quân hữu nhi lang niên thả nhụ 
						老親兮倚門  Lăo thân hề ỷ môn  
						兒郎兮待哺  Nhi lang hề đăi bộ  
						供親餐兮妾為男  Cung thân xan hề thiếp vi nam 
						課子書兮妾為父  Khóa tử thư hề thiếp vi phụ  
						供親課子此一身  Cung thân khóa tử thử nhất thân  
						傷妾思君今幾度  Thương thiếp tư quân kim kỷ độ  
						思君昨日兮已過  Tư quân tạc nhật hề dĩ quá  
						思君今年兮又暮  Tư quân kim niên hề hựu mộ  
						君淹留  Quân yêm lưu  
						二年三年更四年  Nhị niên tam niên cánh tứ niên  
						妾情懷  Thiếp t́nh hoài  
						百縷千縷還萬縷  Bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ  
						安得在君邊  An đắc tại quân biên  
						訴妾衷腸苦  Tố thiếp trung trường khổ  
						妾有漢宮釵  Thiếp hữu Hán cung thoa  
						曾是嫁時將送來  Tằng thị giá thời tương tống lai  
						憑誰寄君子  Bằng thuỳ kư quân tử  
						表妾相思懷  Biểu thiếp tương tư hoài  
						妾有秦樓鏡  Thiếp hữu Tần lâu kính  
						曾與郎初相對影  Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh  
						憑誰寄君子  Bằng thùy kư quân tử  
						照妾今孤另  Chiếu thiếp kim cô lánh  
						妾有鉤指銀  Thiếp hữu câu chỉ ngân  
						手中時相親  Thủ trung thời tương thân  
						憑誰寄君子  Bằng thuỳ kư quân tử  
						微物寓慇懃  Vi vật ngụ ân cần  
						妾有搔頭玉  Thiếp hữu tao đầu ngọc  
						嬰兒年所弄  Anh nhi niên sở lộng  
						憑誰寄君子  Bằng thuỳ kư quân tử  
						他鄉幸珍重  Tha hương hạnh trân trọng
						
						   
						望想          
						Vọng Tưởng 
						 
						昔年音信有來時  Tích niên âm 
						tín hữu lai thời  
						今年音稀信亦稀  Kim niên âm hy tín diệc hy  
						見雁枉然思塞帛  Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch  
						聞霜漫自製綿衣  Văn sương mạn tự chế miên y  
						西風欲寄無鴻便  Tây phong dục kư vô hồng tiện  
						天外憐伊雪雨垂  Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
						 
						雪寒伊兮虎帳  Tuyết hàn y hề hổ trướng  
						雨冷伊兮狼幃  Vũ lănh y hề lang vi  
						寒冷般般苦  Hàn lănh ban ban khổ  
						天外可憐伊  Thiên ngoại khả liên y  
						錦字題詩封更展  Cẩm tự đề thi phong cánh triển  
						金錢問卜信還疑  Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi  
						幾度黃昏  Kỷ độ hoàng hôn 
						時重軒人獨立  Thời trùng 
						hiên nhân độc lập  
						幾回明月  Kỷ hồi minh nguyệt 
						夜單枕鬢斜攲  Dạ đơn chẩm 
						mấn tà khi  
						不關酖與  Bất quan trầm dữ 
						酣惛惛人似醉  Hàm hôn hôn 
						nhân tự tuư  
						不關愚與  Bất quan ngu dữ 
						惰懵懵意如癡  Nọa mộng mộng 
						ư như si  
						簪斜委鬌髼無奈  Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại  
						裙褪柔腰瘦不支  Quần thối nhu yêu sấu bất chi  
						晝沈沈午院行如墜  Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ  
						夕悄悄湘簾捲又垂  Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
						 
						簾外窺日  Liêm ngoại khuy nhật 
						出枝頭無鵲報  Xuất chi đầu 
						vô thước báo  
						簾中坐夜  Liêm trung tọa dạ 
						來心事只燈知  Lai tâm sự chỉ 
						đăng tri  
						燈知若無知  Đăng tri nhược vô tri  
						妾悲只自悲  Thiếp bi chỉ tự bi   
						愁悶          
						Sầu Muộn 
						悲又悲兮更無言  Bi hựu bi hề cánh vô ngôn  
						燈花人影總堪憐  Đăng hoa nhân ảnh tổng kham liên
						 
						咿喔雞聲通五夜  Y ốc kê thanh thông ngũ dạ  
						披拂槐陰度八磚  Phi phất ḥe âm độ bát chuyên  
						愁似海  Sầu tự hải  
						刻如年  Khắc như niên  
						強燃香花  Cưỡng nhiên hương hoa 
						魂消檀炷下  Hồn tiêu đàn chú hạ  
						強臨鏡玉  Cưỡng lâm kính ngọc 
						筋墜菱花前  Cân trụy lăng hoa tiền  
						強援琴指下  Cưỡng viện cầm chỉ hạ 
						驚停鸞鳳柱  Kinh đ́nh loan phượng trụ  
						強調瑟曲中  Cưỡng điều sắt khúc trung 
						悲遏鴛鴦絃  Bi yết uyên ương huyền  
						此意春風若肯傳  Thử ư xuân phong nhược khẳng truyền  
						千金借力寄燕然  Thiên kim tá lực kư Yên Nhiên  
						燕然未能傳  Yên Nhiên vị năng truyền  
						憶君迢迢兮路如天  Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên  
						天遠未易通  Thiên viễn vị dị thông  
						憶君悠悠兮思何窮  Ức quân du du hề tứ hà cùng  
						懷人處傷心胸  Hoài nhân xứ thương tâm hung  
						樹葉青霜裡  Thụ diệp thanh sương lư  
						蛩聲細雨中  Cùng thanh tế vũ trung  
						霜斧殘兮楊柳  Sương phủ tàn hề dương liễu  
						雨鋸損兮梧桐  Vũ cứ tổn hề ngô đồng  
						鳥返高舂  Điểu phản cao thung  
						露下低叢  Lộ há đê tùng  
						寒垣候虫  Hàn viên hậu trùng  
						遠寺曉鐘  Viễn tự hiểu chung  
						蟋蟀數聲雨  Tất suất sổ thanh vũ  
						芭蕉一院風  Ba tiêu nhất viện phong  
						風裂紙窗穿帳隙  Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích  
						月移花影上簾櫳  Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung  
						花前月照月自白  Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch  
						月下花開花自紅  Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng  
						月花花月兮影重重  Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
						 
						花前月下兮心忡忡  Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung. 
						 
						   
						失望          
						Thất Vọng 
						千般懶萬事慵  Thiên ban lăn vạn sự dung  
						慵女工錦  Dung nữ công cẩm 
						 
						 
						軸恥拋鴛對偶  
						Trục sỉ phao uyên đối ngẫu  
						慵婦巧金  Dung phụ xảo kim 
						針羞刺蝶雌雄  Châm tu thích điệp thư hùng  
						慵粧對曉空施粉  Dung trang đối hiểu không thi phấn  
						慵語終朝悶倚窗  Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song  
						倚窗倚窗復倚窗  Ỷ song ỷ song phục ỷ song  
						郎君去兮誰為容  Lang quân khứ hề thuỳ vi dung  
						誰為容兮空盤桓  Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn  
						郎君去兮隔重關  Lang quân khứ hề cách trùng quan
						 
						何啻天帝  Hà thí Thiên đế 
						孫冷落泣銀渚  Tôn lănh lạc khấp Ngân Chử  
						何啻姮娥  Hà thí Hằng Nga 
						 
						 
						婦凄凉坐廣寒  
						Phụ thê lương tọa Quảng Hàn  
						藉愁兮為枕  Tạ sầu hề vi chẩm  
						煮悶兮為餐  Chử muộn hề vi xan  
						欲將酒制  Dục tương tửu chế 
						愁愁重酒無力  Sầu sầu trọng tửu vô lực  
						欲將花解  Dục tương hoa giải 
						悶悶壓花無顏  Muộn muộn áp hoa vô nhan  
						愁悶總為愁悶誤  Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ  
						悶愁化作九泉灘  Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than  
						試瓊笙兮不成響  Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng  
						抱銀箏兮不忍彈  Băo ngân tranh hề bất nhẫn đàn  
						思遠塞兮行路難  Tư viễn tái hề hành lộ nan  
						念征夫兮囊索單  Niệm chinh phu hề nang tác đơn  
						鵑聲啼落關情淚  Quyên thanh đề lạc quan t́nh lệ  
						樵鼓敲殘帶憊肝  Tiều cổ xao tàn đái bại can  
						不勝憔悴形骸軟  Bất thăng tiều tụy h́nh hài nhuyễn
						 
						始覺睽離滋味酸  Thủy giác khuê ly tư vị toan 
						 
						   
						望尋          
						Vọng Tầm 
						滋味酸兮酸更辛  Tư vị toan hề toan cánh tân  
						酸辛端的為良人  Toan tân đoan đích vị lương nhân  
						為良人兮雙妾淚  Vị lương nhân hề song thiếp lệ  
						為良人兮隻妾身  Vị lương nhân hề chích thiếp thân
						 
						妾身不到君征帳  Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng  
						妾淚不到君征巾  Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân  
						惟有夢魂無不到  Duy hữu mộng hồn vô bất đáo  
						尋君夜夜到江津  Tầm quân dạ dạ đáo giang tân  
						尋君兮陽台路  Tầm quân hề Dương Đài lộ  
						會君兮湘水濱  Hội quân hề Tương thuỷ tân  
						記得幾番歡會處  Kư đắc kỷ phiên hoan hội xứ  
						無非一枕夢中春  Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân.  
						此身反恨不如夢  Thử thân phản hận bất như mộng  
						隴水函關與子親  Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân  
						夢去每憎驚更斷  Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn  
						夢回又慮幻非真  Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân  
						惟有寸心真不斷  Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn  
						未嘗頃刻少離君  Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân  
						心不離君未見君  Tâm bất ly quân vị kiến quân,  
						凭高幾度望征輪  Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân  
						望君何所見  Vọng quân hà sở kiến  
						江洲滿白蘋  Giang châu măn bạch tần  
						燕草披青縷  Yên thảo phi thanh lũ  
						秦桑染綠雲  Tần tang nhiễm lục vân  
						南來井邑半兵塵  Nam lai tỉnh ấp bán binh trần  
						落日平沙鷺一群  Lạc nhật b́nh sa lộ nhất quần  
						望君何所見  Vọng quân hà sở kiến  
						官路短長亭  Quan lộ đoản trường đ́nh  
						雲間吳樹暗  Vân gian Ngô thọ ám  
						天際蜀山青  Thiên tế Thục sơn thanh  
						北來禾黍半荒城  Bắc lai hoà thử bán hoang thành  
						微雨江樓笛一聲  Vi vũ giang lâu địch nhất thanh  
						望君何所見  Vọng quân hà sở kiến  
						崆山葉做堆  Không sơn diệp tố đôi  
						自飛青野雉  Tự phi thanh dă trĩ  
						自舞隔江梅  Tự vũ cách giang mai  
						東去煙嵐慘不開  Đông khứ yên lam thảm bất khai  
						西風飄薄鳥聲哀  Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai  
						望君何所見  Vọng quân hà sở kiến  
						河水曲如鉤  Hà thủy khúc như câu  
						長空數點雁  Trường không sổ điểm nhạn,  
						遠浦一歸舟  Viễn phố nhất quy châu  
						西去松楸接斷蕪  Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu  
						行人微沒隔蒼洲  Hành nhân vi một cách thương châu
						 
						望盡天頭又地頭  Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu  
						幾日登樓更下樓  Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu  
						凍雲阻盡相思眼  Đống vân trở tận tương tư nhăn  
						何處玉關征戰陬  Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu.   
						懷疑          
						Hoài Nghi 
						 
						恨無長房縮地術  
						Hận vô trường pḥng súc địa thuật  
						恨無仙子擲巾符  Hận vô tiên tử trịch cân phù  
						有心誠化石  Hữu tâm thành hóa thạch  
						無淚可登樓  Vô lệ khả đăng lâu  
						回首長堤楊柳色  Hồi thủ trường đề dương liễu sắc  
						悔教夫婿覓封侯  Hối giao phu tế mịch phong hầu.  
						不識離家千里外  Bất thức ly gia thiên lư ngoại  
						君心有似妾心不  Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu  
						君心倘與妾心似  Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự  
						妾亦於君何怨尤  Thiếp diệc ư quân hà oán vưu  
						妾心如花常向陽  Thiếp tâm như hoa thường hướng 
						dương  
						只怕君心如流光  Chỉ phạ quân tâm như lưu quang  
						流光一去不復照  Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu  
						花為流光黃又黃  Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng  
						花黃更向誰邊笑  Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu  
						流光不肯一迴照  Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
						 
						黃花卻為流光老  Hoàng hoa khước vi lưu quang lăo  
						黃花老兮落滿墻  Hoàng hoa lăo hề lạc măn tường.   
						憂老          
						Ưu Lăo 
						花落如今經幾霜  Hoa lạc như kim kinh kỷ sương  
						庭蘭兮已摘  Đ́nh lan hề dĩ trích  
						江藻兮又芳  Giang tảo hề hựu phương  
						攝衣步前堂  Nhiếp y bộ tiền đường  
						仰目觀天章  Ngưỡng mục quan thiên chương  
						纖雲時彷彿  Tiêm vân thời phảng phất  
						北斗忽低昂  Bắc đẩu hốt đê ngang  
						河水翻明滅  Hà thuỷ phiên minh diệt  
						參躔乍現藏  Sâm triền sạ hiện tàng  
						月照兮我床  Nguyệt chiếu hề ngă sàng  
						風吹兮我牆  Phong xuy hề ngă tường  
						玉顏隨年削  Ngọc nhan tuỳ niên tước  
						丈夫猶他方  Trượng phu do tha phương  
						昔為形與影  Tích vi h́nh dữ ảnh  
						今為參與商  Kim vi Sâm dữ Thương  
						君邊雲擁青絲騎  Quân biên vân ủng thanh ty kỵ  
						妾處苔生嚮屧廊  Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang  
						廊內春風日將歇  Lang nội xuân phong nhật tương yết
						 
						可憐誤盡良時節  Khả liên ngộ tận lương thời tiết  
						良時節姚  Lương thời tiết Diêu 
						黃魏紫嫁東風  Hoàng Nguỵ tử giá Đông phong  
						良時節織  Lương thời tiết Chức 
						女牛郎會明月  Nữ Ngưu lang hội minh nguyệt  
						昨日未笄西家娘  Tạc nhật vị kê Tây gia nương  
						今年已歸東鄰倩  Kim niên dĩ quy Đông lân thiến  
						可怜兔守一空房  Khả linh thố thủ nhất không pḥng  
						年年誤盡良時節  Niên niên ngộ tận lương thời tiết  
						良時節兮忽如梭  Lương thời tiết hề hốt như thoa  
						人世青春容易過  Nhân thế thanh xuân dung dị qua  
						況復是春  Huống phục thị xuân 
						悶未消秋恨續  Muộn vị tiêu thu hận tục  
						況復是合  Huống phục thị hợp 
						歡更少別愁多  Hoan cánh thiểu biệt sầu đa  
						別愁秋恨兩相磨  Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma  
						蒲柳青青能幾何  Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà  
						空漢惜淚咨嗟  Không thán tích lệ tư ta  
						只怕白到  Chỉ phạ bạch đáo 
						文君頭空嘆惜  Văn Quân đầu không thán tích  
						只恐花到  Chỉ khủng hoa đáo 
						潘郎鬢浪咨嗟  Phan lang mấn lăng tư ta  
						嘆惜何以為  Thán tích hà dĩ vi  
						顏色猶紅如嫩花  Nhan sắc do hồng như nộn hoa  
						咨嗟何以為  Tư ta hà dĩ vi  
						光陰一擲無回戈  Quang âm nhất trịch vô hồi qua  
						咨命薄惜年花  Tư mệnh bạc tích niên hoa  
						紛紛少婦幾成皤  Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà  
						香閣重懷陪笑臉  Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm  
						花樓尚記解香羅  Hoa lâu thượng kư giải hương la  
						恨天不與人方便  Hận thiên bất dữ nhân phương tiện  
						底事到今成坎坷  Để sự đáo kim thành khảm kha  
						坎坷坎坷知奈何  Khảm kha khảm kha tri nại hà  
						為妾嗟兮為君嗟  Vị thiếp ta hề vị quân ta   
						願約          
						Nguyện Ước 
						君不見野外雙鴛鴦  Quân bất kiến dă ngoại song uyên ương  
						甘心不忍兩分張  Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương  
						又不見樑間雙燕燕  Hựu bất kiến lương giang song yến yến  
						白首何曾忘眷戀  Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến  
						鶼鶼也無情  Kiêm kiêm dă vô t́nh  
						比翼相隨過一生  Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh  
						蛩蛩也無知  Cùng cùng dă vô tri  
						並驅到老不相違  Tịnh khu đáo lăo bất tương vi  
						路柳曾傳連理處  Lộ liễu tằng truyền liên lư xứ  
						池蓮亦有並頭時  Tŕ liên diệc hữu tịnh đầu thời  
						負蟨兮駏驉  Phụ quyết hề cự hư  
						抱蘿兮菟絲  Băo la hề thố ty  
						何人生之相違  Hà nhân sinh chi tương vi  
						嗟物類之如斯  Ta vật loại chi như tư  
						安得在天為比翼鳥  An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu  
						在地為連理枝  Tại địa vi liên lư chi  
						寧甘死相見  Ninh cam tử tương kiến  
						不忍生相離  Bất nhẫn sinh tương ly  
						雖然死相見  Tuy nhiên tử tương kiến  
						曷若生相隨  Hạt nhược sinh tương tuỳ  
						安得君無老日  An đắc quân vô đáo lăo nhật  
						妾常少年  Thiếp thường thiếu niên  
						願為影兮隨君邊  Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên  
						君有行兮影不遠  Quân hữu hành hề ảnh bất viễn  
						君依光兮妾如願  Quân y quang hề thiếp như nguyện  
						願君許國心如丹  Nguyện quân hứa quốc tâm như đan  
						願君庇民身如鐵  Nguyện quân tỳ dân thân như thiết  
						饑來吞下月氏頭  Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu  
						渴來飲下單于血  Khát lai ẫm hạ Thiền Vu huyết.   
						
						懇求          Khẩn 
						Cầu 
						何幸期門鋒刃中  Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung  
						老天著意護英雄  Lăo thiên trước ư hộ anh hùng  
						護英雄百戰功  Hộ anh hùng bách chiến công  
						長驅駟馬靜關東  Trường khu tứ mă tịnh quan Đông  
						關東關北休傳箭  Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn,  
						山尾山頭早掛弓  Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung  
						捷色旌旗辭塞月  Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt  
						凱歌將士背邊風  Khải ca tướng sĩ bối biên phong  
						勒詩兮燕然石  Lặc thi hề Yên Nhiên thạch  
						獻馘兮未央宮  Hiến quắc hề Vị Ương cung  
						未央宮兮向天朝  Vị Ương cung hề hướng thiên triều  
						挽銀河兮洗刀弓  Văn Ngân hà hề tẩy đao cung  
						詞人刪下平淮頌  Từ nhân san hạ B́nh Hoài Tụng  
						樂府歌傳入漢謠  Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao  
						凌煙閣兮秦叔寶  Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu  
						麒麟台兮霍嫖姚  Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu  
						天長地久茅苴券  Thiên trường địa cửu mao thư khoán  
						子蔭妻封爵祿標  Tử ấm thê phong tước lộc tiêu  
						有愁兮此日  Hữu sầu hề thử nhật  
						得意兮來時  Đắc ư hề lai thời  
						妾非蘇家癡心婦  Thiếp phi Tô gia si tâm phụ  
						君亦洛陽好男兒  Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi  
						歸來倘佩黃金印  Quy lai thảng bội hoàng kim ấn  
						肯學當年不下機  Khẳng học đương niên bất há ky  
						願為君兮解征衣  Nguyện vi quân hề giải chinh y  
						願為君兮捧霞巵  Nguyện vi quân hề bổng hà chi  
						為君梳櫛雲鬟髻  Vi quân sơ trất vân hoàn kế  
						為君粧點玉臙脂  Vi quân trang điểm ngọc yên chi  
						取君看兮舊淚帕  Thủ quân khan hề cựu lệ phạ  
						訴君聽兮舊情詞  Tố quân thính hề cựu t́nh từ  
						舊情詞兮換新聯  Cựu t́nh từ hề hoán tân liên  
						語新話舊兮酒杯前  Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền  
						淺斟兮慢慢  Thiển châm hề mạn mạn  
						底唱兮連連  Đê xướng hề liên liên  
						斟不斟兮蒲城釀  Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng  
						唱不唱兮紫騮篇  Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên  
						願斟九醞兮唱雙聯  Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
						 
						與君整頓兮舊姻緣  Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên  
						交頸成雙到老天  Giao kỉnh thành song đáo lăo thiên  
						償了功名離別債  Thường liễu công danh ly biệt trái  
						相憐相守太平年  Tương liên tương thủ thái b́nh niên  
						太平年願君止戈置  Thái b́nh niên nguyện quân chỉ qua trí
						 
						若然此別妾何淚  Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ  
						將會之期將寄言  Tương hội chi kỳ tương kư ngôn  
						嗟乎丈夫當如是  Ta hồ trượng phu đương như thị... 
			
			鄧陳琨
			- 
						Đặng Trần Côn  | 
						
						 
						Thời 
						Loạn (Đoàn Thị Điểm) 
						
						Thuở trời đất nổi cơn gió 
						bụi, 
						Khách má hồng nhiều nỗi
						 
						Xanh kia thăm thẳm từng trên 
						V́ ai gây dựng cho nên nỗi này? 
						
						Trống
						 lung lay bóng nguyệt, 
						Khói
						 mờ mịt thức mây. 
						Chín lần gươm báu trao tay, 
						Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. 
						Nước thanh b́nh ba trăm năm cũ, 
						 trao quan vũ từ đây. 
						Sứ trời sớm giục đường mây, 
						Phép công là trọng
						 sá nào. 
						Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn, 
						Buổi tiễn đưa ḷng bận
						 
						Bóng cờ tiếng trống xa xa, 
						Sầu lên ngọn ải oán ra cửa pḥng. 
						Chàng tuổi trẻ vốn ḍng hào kiệt, 
						Xếp bút nghiên theo việc đao cung. 
						 mong tiến bệ rồng,  
						Thước gươm đă quyết chẳng dong
						 
						Chí làm trai dặm ngh́n
						 
						 
						Giă nhà đeo bức chiến bào, 
						Thét roi
						 ào ào gió thu. 
						  
						
						Xuất Chinh 
						
						Ng̣i đầu cầu 
						nước trong như lọc,  
						Đường bên cầu cỏ mọc c̣n non.  
						Đưa chàng ḷng dặc dặc buồn,  
						Bộ khôn bằng ngựa thuỷ khôn bằng thuyền.  
						Nước trong chảy ḷng phiền chẳng rửa  
						Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên  
						Nhủ rồi tay lại trao liền  
						Bước đi một bước lại vin áo chàng.  
						Ḷng thiếp tựa bóng trăng theo dơi,  
						Dạ chàng xa ngoài cơi
						.
						 
						Múa
						 rượu tiễn chưa tàn,  
						Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.  
						 
						 
						Áo chàng đỏ tựa ráng pha,  
						Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.  
						Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,  
						Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.  
						 chia rẽ đường này  
						Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi.  
						Quân trước đă gần ngoài
						,  
						Ngựa sau c̣n khuất nẻo
						.  
						Quân đưa chàng ruổi lên đường,  
						Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng? 
						Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng.  
						Hàng cờ bay trông bóng phất phơ.  
						Dấu chàng theo lớp mây đưa,  
						Thiếp nh́n rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.  
						Chàng th́ đi cơi xưa mưa gió,  
						Thiếp lại về buồng cũ chiếu chăn.  
						Đoái trông theo đă cách ngăn,  
						Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.  
						Chốn
						 chàng c̣n ngoảnh lại,  
						Bến
						
						thiếp hăy trông sang.  
						Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
						  
						
						Cây Hàm Dương 
						cách Tiêu Tương mấy trùng 
						Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.  
						Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.  
						Ngàn dâu xanh ngắt một màu,  
						Ḷng chàng ư thiếp ai sầu hơn ai?
						  
						  
						
						Sầu Tủi 
						
						Chàng từ đi 
						vào nơi gió cát,  
						Đêm trăng này nghỉ mắt phương nao?  
						Xưa nay chiến địa dường bao,  
						Nội không muôn dặm xiết sao dăi dầu.  
						Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,  
						Ḍng nước sâu ngựa nản chân bon.  
						Ôm yên gối trống đă chồn.  
						Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.  
						Nay Hán xuống
						 đóng lại,  
						Mai Hồ vào
						 ḍm qua.  
						H́nh khe thế núi gần xa,  
						Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao.  
						Sương đầu núi buổi chiều như gội,  
						Nước ḷng khe nẻo lội c̣n sâu.  
						Năo người áo giáp bấy lâu,  
						Ḷng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.  
						Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,  
						Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ?  
						Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,  
						Chẳng nơi
						 th́ miền
						.  
						Đă trắc trở đ̣i ngàn xà hổ,  
						Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.  
						,  
						Ḷng nào là chẳng động ḷng bi thương ?  
						Chàng từ sang đông nam khơi nẻo,  
						Biết nay chàng
						 nơi đâu.  
						Những người chinh chiến bấy lâu,  
						Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.  
						Nức hơi mạnh ân dày từ trước,  
						Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu.  
						 quạnh quẽ trăng treo, 
						 gió thổi đ́u hiu mấy g̣.  
						Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,  
						Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi.  
						Chinh phu tử sĩ mấy người,  
						Nào ai
						 nào ai gọi hồn ?  
						Dấu binh lửa nước non như cũ,  
						Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.  
						Phận trai già ruổi chiến trường,  
						 tóc đă điểm sương mới về.  
						Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,  
						Ba thước gươm một cỗ nhung yên.  
						Xông pha gió băi trăng ngàn,  
						 đầu ngựa
						 mặt thành.  
						Áng công danh trăm đường rộn ră,  
						Những nhọc nhằn nào đă nghỉ ngơi. 
						  
						
						Nhớ Mong 
						
						Nỗi ḷng biết 
						ngỏ cùng ai.  
						Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây.  
						Trong cửa này đă đành phận thiếp,  
						Ngoài mây kia há kiếp chàng
						?  
						Những mong cá nước vui vầy,  
						Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.  
						Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,  
						Chàng há từng học lũ
						.  
						Cớ sao cách trở nước non,  
						Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu?  
						Trang phong lưu đang chừng niên thiếu,  
						Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.  
						Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,  
						!  
						Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,  
						Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.  
						Nay quyên đă giục oanh già,  
						 lại gáy trước nhà líu lo.  
						Thuở
						 mai chưa dạn gió,  
						Hỏi ngày về chỉ độ đào bông.  
						Nay đào đă quyến gió đông,  
						Phù dung lại đă bên sông bơ xờ.  
						Hẹn cùng ta
						 nham ấy,  
						Sớm đă trông nào thấy hơi tăm.  
						Ngập ngừng lá rụng cành trâm,  
						Chiều hôm nghe dậy
						 lao xao  
						Hẹn nơi nao
						 cầu nọ  
						Chiều lại t́m nào có tiêu hao.  
						Ngập ngừng gió thổi áo bào,  
						Băi hôm tuôn dẫy
						 mênh mông.  
						Tin thường lại người không thấy lại,  
						Hoa dương tàn đă trải rêu xanh.  
						Rêu xanh mấy lớp chung quanh,  
						Sân đi một bước trăm t́nh ngẩn ngơ.  
						Thư thường lại người chưa thấy lại,  
						Bức rèm thưa lần dăi bóng dương.  
						Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,  
						Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
						  
						  
						
						Xa Cách 
						
						Thử tính lại
						 ngày ấy,  
						 này đă nảy là ba.  
						Xót người lần lữa ải xa,  
						Xót người nương chốn
						 dặm dài.  
						T́nh gia thất nào ai chẳng có.  
						Ḱa
						
						 nhớ thương.  
						Mẹ già phơ phất mái sương.  
						Con thơ măng sữa vả đương
						  
						Ḷng lăo thân buồn khi tựa cửa,  
						Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.  
						Ngọt bùi thiếp đă hiếu nam,  
						Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.  
						Nay một thân nuôi già dạy trẻ.  
						Nỗi quan hoài mang mể biết bao.  
						Nhớ chàng trải mấy sương sao,  
						Xuân từng đổi mới đông nào c̣n dư.  
						Kể năm đă ba tư cách diễn,  
						Mối sầu thêm ngh́n vạn ngổn ngang.  
						Ước ǵ gần gũi tấc gang.  
						Giăi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.  
						 thuở ngày xuất giá,  
						 dấu cũ soi chung.  
						Cậy ai mà gửi tới cùng,  
						Để chàng thấu hết tấm ḷng tương tư?  
						 mọi khi ngắm nghía  
						 thuở bé vui chơi.  
						Cậy ai mà gửi tới nơi,  
						Để chàng trân trọng dấu người tương thân?   
						Mong Tưởng
						
						 
						Trải mấy xuân tin đi tin 
						lại,  
						Tới xuân này tin hăy vắng không.  
						,  
						Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng.  
						Gió tây nổi khôn đường
						,  
						Xót cơi ngoài tuyết quyến mưa sa.  
						 xông pha,  
						Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cơi ngoài.  
						Đề
						 phong thôi lại mở,  
						 tin dở c̣n ngờ,  
						Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,  
						Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.  
						Há như ai hồn say bóng lẫn,  
						Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.  
						Trâm cài
						 thẹn thùng,  
						Lệch làn tóc rối lỏng ṿng lưng eo.  
						Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước  
						Ngồi rèm thưa
						 đ̣i phen.  
						Ngoài rèm, thước chẳng mách tin,  
						Trong rèm dường đă có đèn biết chăng.  
						Đèn có biết dường bằng chẳng biết,  
						Ḷng thiếp riêng bi thiết mà thôi. 
						   
						Sầu Muộn 
						Buồn rầu nói chẳng nên lời,  
						 kia với bóng người khá thương.  
						Gà eo óc gáy sương năm trống,  
						Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.  
						Khắc giờ đằng đẵng như niên,  
						Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.  
						Hương gượng đốt hồn đà mê mải,  
						Gương gượng soi lệ lại chứa chan.  
						Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,  
						 kinh đứt
						 ngại chùng.  
						Ḷng này gửi gió đông có tiện,  
						Ngh́n vàng xin gửi đến non Yên.  
						Non yên dầu chẳng tới miền,  
						Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.  
						Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,  
						Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.  
						Cảnh buồn người thiết tha ḷng.  
						Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.  
						Sương như búa bổ ṃn gốc liễu,  
						Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô.  
						Giọt sương phủ bụi chim gù,  
						Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi.  
						Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,  
						Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.  
						Lá màn lay ngọn gió xuyên,  
						Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.  
						Hoa giăi nguyệt nguyệt in một tấm,  
						Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông.  
						Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng,  
						Trước hoa dưới nguyệt trong ḷng xiết đâu!   
						Thất Vọng 
						Đâu xiết kể muôn sầu ngh́n năo,  
						Từ nữ công phụ xảo đều nguôi.  
						Biếng cầm kim biếng đưa thoi,  
						Oanh đôi thẹn dệt bướm đôi ngại thùa.  
						Mặt biếng tô miệng càng biếng nói,  
						Sớm lại chiều ḍi dơi nương song.  
						Nương song luống ngẩn ngơ ḷng,  
						Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?  
						Biếng trang điểm ḷng người sầu tủi,  
						Xót nỗi chàng ngoài cơi Giang Lăng.  
						Khác ǵ
						
						,  
						 sùi sụt cung trăng chốc ṃng.  
						Sầu ôm nặng hăy chồng làm gối,  
						Muộn chứa đầy hăy thổi làm cơm  
						Mượn hoa mượn rượu giải buồn  
						Sầu làm rượu nhạt muộn dồn hoa ôi.  
						Gơ sênh ngọc mấy hồi không tiếng,  
						Ôm đàn tranh mẩy phím rời tay.  
						Xót người
						 bấy nay,  
						Dặm xa thêm mỏi tráp đầy lại vơi.  
						Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,  
						 khua như rứt buồng gan.  
						Vơ vàng đổi khác dung nhan,  
						 mới biết
						 dường này.   
						Trông Ngóng 
						Nếm chua cay tấm ḷng mới tỏ,  
						Chua cay này há có v́ ai?  
						V́ chàng lệ thiếp nhỏ đôi,  
						V́ chàng thân thiếp lẻ loi một bề!  
						Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,  
						Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn ?  
						Bui c̣n hồn mộng được gần,  
						Đêm đêm thường tới Giang Tân t́m người.  
						T́m chàng thuở
						 lối cũ,  
						Gặp chàng nơi
						 bến xưa.  
						Sum vầy mấy lúc t́nh cờ,  
						Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.  
						Giận thiếp thân lại không bằng mộng,  
						Được gần chàng bến Lũng thành Quan.  
						Khi mơ những tiếc khi tàn,  
						T́nh trong giấc mộng muôn vàn cũng không.  
						Bui có một tấm ḷng chẳng dứt,  
						Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.  
						Ḷng theo nhưng chửa thấy người.  
						Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.  
						Trông bến nam băi chia mặt nước,  
						Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh.  
						Nhà thôn mấy xóm chông chênh,  
						Một đàn c̣ đậu trước ghềnh chiều hôm.  
						Trông đường bắc đôi cḥm quán khách,  
						Rườm rà cây xanh ngắt núi non.  
						Lúa thành thoi thóp bên cồn,  
						Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.  
						Non đông thấy lá hầu chất đống,  
						Trĩ sập sè mai cũng bẻ bai.  
						Khói mù nghi ngút ngàn khơi,  
						Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.  
						Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,  
						Nhạn liệng không sóng giục thuyền câu.  
						Ngàn thông chen chúc khóm lau,  
						Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.  
						Trông bốn bề chân trời mặt đất,  
						Lên xuống lầu thấm thoát đ̣i phen.  
						Lớp mây ngại mắt khôn nh́n,  
						Biết đâu chinh chiến là miền
						?   
						Hoài Nghi 
						
						 dễ khôn học chước,  
						 nào được thấy tiên. 
						 
						 
						Ḷng này hoá 
						đá cũng nên,  
						E không lệ ngọc mà lên trông lầu.  
						  
						Chẳng hay muôn dặm ruổi rong,  
						Ḷng chàng có cũng như ḷng thiếp chăng?  
						Ḷng chàng ví cũng bằng như thế,  
						Ḷng thiếp nào dám nghĩ gần xa ?  
						Hướng dương ḷng thiếp như hoa,  
						Ḷng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.  
						Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái.  
						Hoa để vàng bởi tại bóng dương.  
						Hoa vàng hoa rụng quanh tường, 
						 
						   
						Lo Già 
						Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần!  
						Chồi lan nọ trước sân đă hái,  
						Ngọn tần kia bên băi đưa hương.  
						Sửa xiêm dạo bước tiền đường,  
						Ngửa trông xem vẻ
						 thẫn thờ.  
						Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,  
						Độ
						 buổi có buổi không.  
						Thức mây đ̣i lúc nhạt nồng,  
						Chuôi sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.  
						Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,  
						Bừng mắt trông sương gội cành khô,  
						Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu  
						Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi.  
						Một năm một nhạt mùi son phấn.  
						Trượng phu c̣n thơ thẩn miền khơi.  
						Xưa sao h́nh ảnh chẳng rời.  
						Bây giờ nỡ để cách vời
						?  
						Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,  
						Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.  
						Gió xuân ngày một vắng tin,  
						Khá thương nhỡ hết mấy phen
						 
						Sẩy nhớ khi
						,  
						Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.  
						Nọ th́ ả Chức nàng Ngâu,  
						Tới trăng thu lại bắc cầu qua sông  
						Thương một kẻ pḥng không luốn giữ,  
						Thời tiết lành lầm lỡ đ̣i nau. 
						 
						 
						Thoi đưa ngày 
						tháng ruổi mau,  
						Người đời thấm thoát qua màu xuân xanh:  
						Xuân thu để giận quanh ở dạ,  
						Hợp li đành buồn quá khi vui.  
						Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,  
						Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.  
						Kia
						 mĩ miều thuở trước;  
						E đến khi đầu bạc mà thương.  
						Mặt hoa nọ gă
						  
						Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng.  
						Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở  
						Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.  
						Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa,  
						Gái tơ mấy chốc sẩy ra nạ ḍng.  
						Gác xuân nọ mơ ṃng vẻ mặt,  
						Lầu hoa kia phảng phất mùi hương.  
						Trách trời sao để nhỡ nhàng,  
						Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên. 
						 
						   
						Ước Mong 
						Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,  
						Cũng dập d́u chẳng vội phân trương.  
						Chẳng xem chim yến trên rường,  
						Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.  
						Kia loài sâu đôi đầu cùng sánh,  
						Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.  
						Liễu sen là thức cỏ cây,  
						Đôi hoa cũng sánh đôi dây cũng liền.  
						Ấy loài vật t́nh duyên c̣n thế,  
						Sao kiếp người nỡ để đấy đây?  
						Thiếp xin về kiếp sau này,  
						Như chim liền cánh như cây liền cành.  
						Đành muôn kiếp chữ t́nh đă vậy,  
						Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.  
						Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,  
						Thiếp th́ giữ măi lấy màu trẻ trung.  
						Xin làm theo bóng cùng chàng vậy,  
						Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.  
						Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền,  
						Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tṛn.  
						Ḷng
						 tựa son ngăn ngắt,  
						Sức
						 dường sắt tri tri  
						Máu
						
						
						,  
						Ấy th́ buổi uống ấy th́ bữa ăn.   
						Khẩn Cầu 
						Mũi
						 đ̣i lần hăm hở,  
						Đă ḷng trời ǵn giữ người trung.  
						Hộ chàng trăm trận nên công,  
						Buông tên ải bắc treo cung non đoài.  
						Bóng cờ xí giă ngoài quan ải,  
						Tiếng khải ca trở lại thần kinh.  
						 tạc đá đề danh,  
						 vào trước
						 dâng công.  
						Nước duềnh Hán vác đ̣ng rửa sạch,  
						Khúc nhạc từ réo rắt ngợi khen.  
						Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,  
						Tên ghi
						 tượng truyền
						  
						 đai cân rạng vẻ,  
						Chữ
						 bia để ngh́n đông.  
						Ơn trên tử ấm thê phong,  
						Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.  
						Thiếp chẳng dại như người
						,  
						Chàng hẳn không như lũ
						.  
						Khi về đeo quả ẩn vàng,  
						Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao.  
						Xin v́ chàng xếp bào cởi giáp,  
						Xin v́ chàng rũ lớp phong sương.  
						V́ chàng tay chuốc chén vàng,  
						V́ chàng điểm phấn đeo hương năo nùng.  
						Giở khăn lệ chàng trông từng tấm,  
						Đọc thơ sầu chàng thẩm từng câu.  
						Câu vui đổi với câu sầu,  
						Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.  
						Sẽ rót vơi lần lần từng chén,  
						Sẽ ca dần ren rén từng thiên.  
						Liên ngâm đối ẩm đ̣i phen,  
						Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.  
						Cho bơ lúc sầu xa cách nhớ,  
						Giữ ǵn nhau vui thuở thanh b́nh.  
						Ngâm nga mong gửi chữ t́nh,  
						Dường này âu hẳn tài lành trượng phu...               
						
						
						
						- Ẩn tiểu sử tác giả: 
						Đặng 
						Trần Côn tiên sinh, tác giả của 
						Chinh 
						
						 
						
						
						phụ ngâm, ở vào 
						khoảng tiền bán thế kỷ 
						
						 
						
						XVIII, 
						dưới triều vua Dụ Tôn nhà Lê. Tiên 
						
						 
						
						sinh 
						người xă Nhân Mục (làng Mọc), huyện 
						
						 
						
						Thanh 
						Tŕ thuộc tỉnh Hà Đông. Vốn có tư 
						
						 
						
						chất 
						thông minh lại là người hiếu học, thuở 
						
						 
						
						thiếu 
						thời cần học, tiên sinh phải làm hầm 
						
						 
						
						đọc sách, 
						bởi lệnh chúa Trịnh cấm đốt lửa 
						
						 
						
						ban đêm, 
						v́ thuở ấy trong nội thành Thăng 
						
						 
						
						Long 
						thường xảy ra hoả hoạn.  
						 
						Tiên sinh đậu cử nhân, làm Huấn đạo, đến 
						
						 
						
						năm 
						1740, đời Lê Hiển Tông, tiên sinh được 
						
						 
						
						thăng bổ 
						Tri huyện Thanh Oai (Hà Đông) và 
						
						 
						
						sau 
						thăng dần đến chức Ngự sử đài.  
						 
						Tính t́nh tiên sinh khoáng dật, hồn nhiên. 
						
						 
						
						Tiên 
						sinh yên sống cuộc đời tao nhă, lấy sự 
						
						 
						
						uống 
						rượu ngâm thơ, hay quẩy túi gió trăng, 
						
						 
						
						thênh 
						thang du ngoạn cảnh thiên nhiên làm 
						
						 
						
						thú vị 
						hơn cả. Văn chương tiên sinh th́ thật 
						
						 
						
						là cao 
						siêu lỗi lạc, nhất là Chinh phụ
						
						
						 
						
						
						ngâm, chẳng những 
						các thi hào trong nước 
						
						 
						
						mà cả 
						nước ngoài cũng đều phải kính phục 
						
						 
						
						văn tài. 
						Thi phái đời Hậu Lê đă được tiên 
						
						 
						
						sinh d́u 
						dắt trên đường trấn hưng, và kho 
						
						 
						
						tàng văn 
						học sử nước nhà đă được tiên sinh 
						
						 
						
						bồi đắp 
						bằng những áng văn quư giá. Ngoài 
						
						 
						
						
						Chinh phụ ngâm, tiên 
						sinh c̣n soạn: Tiêu 
						
						
						 
						
						Tương 
						bát cảnh, Trương Hàn tư thuần 
						 
						
						tư,
						Trương Lương bố y, Khấu môn 
						 
						
						
						thanh, tiểu thuyết
						Bích Câu kỳ ngộ, và
						
						
						 
						
						các áng 
						văn thơ khác, tất thảy đều là những 
						
						 
						
						tác phẩm 
						giá trị được các bậc thi hào truyền 
						
						 
						
						tụng.  |